Khác Đọc

Hai truyện Mansfield

Hai tập truyện ngắn của Katherine Mansfield sắp được chúng tôi in: nếu không có gì nhầm lẫn, đây là lần đầu tiên tác phẩm Mansfield xuất hiện trong tiếng Việt. Mansfield, với cuộc đời ngắn ngủi, không tạo ra một khối lượng đồ sộ các văn bản, và chủ yếu viết truyện ngắn, nhưng đó là một trong những ngôi sao băng có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử văn chương, và sự xuất hiện của văn chương Mansfield trong bất kỳ ngôn ngữ nào cũng tạo ra các chuyển động tinh tế và lâu dài.

Phần dưới đây được trích từ tập Tiệc vườn và Ở nhà trọ Đức.


Ông bà Bồ Câu

Tất nhiên anh biết - rõ hơn bất kỳ ai - rằng anh hoàn toàn không có cơ hội nào. Chỉ mường tượng điều đó thôi đã là vô lý, vô lý đến độ dẫu cha nàng quyết định thế nào, anh cũng có thể hiểu được. Sự thật là không một điều gì có thể đẩy anh đến quyết tâm này ngoài nỗi tuyệt vọng khốn cùng - rằng anh chỉ còn được ở Anh nốt hôm nay rồi sẽ phải đi, Chúa mới biết là bao lâu… Anh chọn một chiếc cà vạt từ ngăn kéo - một chiếc cà vạt kẻ ca rô màu lam và kem - rồi ngồi xuống mé giường. Giả sử nàng đáp, “Thật vô lễ, quá quắt!” thì anh có ngạc nhiên không? Cuối cùng, anh hạ quyết tâm, kéo cao cổ áo lên, bẻ gập nó xuống che cà vạt. Anh nghĩ nàng sẽ nói thế. Nghĩ cho kỹ, quả thật anh không thể tin nàng có thể nói điều gì khác.

Anh đứng trước gương, bồn chồn thắt nơ, dùng cả hai tay ép chặt tóc xuống đầu. Năm sáu trăm bảng thu nhập hằng niên ở một trang trại trái cây - không ở chỗ quái nào lại ở tận Rhodesia. Không tư bản, không mảy may cơ hội tăng thu nhập - ít nhất là trong bốn năm tới, ngoại hình thì càng chẳng cần bàn. Thậm chí anh còn chẳng thể tự hào về sức khỏe của mình - công việc ở Đông Phi đã khiến anh suy kiệt đến độ phải dành ra sáu tháng nghỉ ngơi, giờ vẫn xanh như tàu lá, và chiều nay còn tệ hơn bình thường, anh tự nhủ, chúi người ngó vào gương. A, cái gì thế này? Tóc anh sao lại chuyển sang màu xanh lục? Quỷ tha ma bắt, thế này thì quá lắm! Mảng xanh lấp loáng trong gương, rung rinh, rung rinh. Đó là bóng cái cây ngoài cửa. Reggie quay đi, rút hộp thuốc lá ra, nhưng nhớ rằng mẹ không thích anh hút thuốc trong phòng, anh lại cất nó đi, dạt về phía cái tủ. Giá anh nghĩ ra được dẫu chỉ một lợi thế của mình, trong khi nàng… Ôi!.. Anh đứng đờ, khoanh tay, cả người đổ dựa vào tủ.

Và mặc cho địa vị của nàng, sự giàu có của cha nàng, việc nàng là con một và là thiếu nữ được ngưỡng mộ nhất vùng này, mặc cho sắc đẹp của nàng, trí tuệ của nàng - trí tuệ! - còn hơn thế nữa, quả thật không có gì nàng không giỏi; anh tin chắc rằng, nếu muốn, nàng có thể trở thành thiên tài trong bất cứ lĩnh vực nào - mặc cho việc cha mẹ nàng rất yêu nàng, cũng như nàng yêu họ, mặc cho việc họ sẵn lòng cho phép nàng làm những gì mình muốn, kể cả nếu đó là… Mặc cho tất cả những trở ngại trùng trùng này, tình yêu của anh vẫn quá lớn - anh không thể không hy vọng. Nhưng đó có phải là hy vọng không? Hay nỗi khát khao kỳ lạ, rụt rè này - khát khao một cơ hội được chăm sóc nàng, được dâng trọn đời mình để đảm bảo rằng nàng có tất cả những gì mình muốn, rằng chẳng điều gì không hoàn hảo được đến gần nàng - chính là biểu hiện của tình yêu? Anh yêu nàng biết bao! Anh ép mình vào tủ, thì thầm với nó: “Ta yêu nàng, ta yêu nàng!” và trong khoảnh khắc anh đã thấy mình đang cùng nàng lên đường đi Umtali. Họ lao đi giữa đêm. Nàng đang thu mình ngủ trong góc xe - cổ áo mềm bao lấy chiếc cằm mềm, hàng mi nâu óng mềm khép trên bờ má. Anh lướt ngón tay trên chiếc mũi nhỏ thanh tú, đôi môi lung linh, đôi tai như tai em bé và lọn tóc nâu vàng che nửa bên tai. Họ đang băng qua rừng. Ấm áp, mịt mù, xa thẳm. Rồi nàng tỉnh giấc, hỏi, “Em đã thiếp đi à?” và anh trả lời, “Phải, em yêu. Em thấy trong người thế nào? Đây, để anh…” và chúi người về phía nàng… Anh cúi xuống. Hạnh phúc! Anh không thể mơ gì hơn nữa. Nhưng dẫu sao nó cũng cho anh can đảm để xuống cầu thang, chộp lấy chiếc mũ rơm trên tường và vừa đóng cửa lại vừa tự nhủ, “Chà, chỉ có thể thử vận mệnh của ta thôi.”

Nhưng vận mệnh trước tiên đã giáng cho anh một cú, gần như lập tức. Lững thững quanh vườn cùng Chinny và Biddy, hai con chó cảnh Bắc Kinh, là mẹ. Tất nhiên Reginald không thể nói là mình ghét mẹ. Đó là một phụ nữ tràn trề thiện ý và kiên cường vô biên nhưng không thể phủ nhận rằng bà là một bà mẹ nghiệt ngã. Đời Reggie đã có những, đúng ra là rất nhiều, khoảnh khắc trước khi chú Alick qua đời và để lại cho anh trang trại trái cây khiến anh tin rằng làm con trai duy nhất của một góa phụ là hình phạt tồi tệ nhất mà một người phải chịu. Và điều khiến mọi thứ càng khó khăn là anh thực sự chẳng có ai khác ngoài bà. Bà không chỉ vừa làm cha vừa làm mẹ mà còn bất hòa, tuyệt giao với tất tật người thân của mình và của thống sứ trước khi Reggie kịp lớn, thành thử những lúc bất thần nhớ nhà khi đang ở chốn xa lắc ấy, những lúc ngồi trên hiên dưới ánh sao, trong tiếng máy hát nỉ non, “Người hỡi, Cuộc sống là gì ngoài Tình yêu?” hình ảnh duy nhất hiện ra với Reggie là mẹ - người đàn bà cao lớn, nặng nề, bước loạt xoạt trong vườn, Chinny và Biddy theo sát gót…

Cầm trong tay cái kéo vẫn đang xòe rộng để cắt đầu một bông hoa héo, bà đứng khựng lại khi thấy Reggie.

“Không phải con định ra ngoài đấy chứ, Reginald?” bà hỏi khi thấy anh đang chuẩn bị ra ngoài.

“Con sẽ về kịp bữa trà, thưa mẹ,” Reggie yếu ớt nói, đút hai tay vào túi áo khoác.

Xoẹt. Một nhành hoa rụng. Reggie giật bắn mình.

“Mẹ tưởng chiều cuối cùng trước khi lên đường ít nhất con cũng sẽ dành cho bà mẹ già này,” bà nói.

Im lặng. Hai con chó nhìn anh chằm chằm. Chúng hiểu từng lời của mẹ. Biddy nằm phục, lưỡi thè ra. Nó béo ú, lông sáng óng, chẳng khác nào một cục kẹo bơ đang chảy từ từ. Đôi mắt sứ của Chinny thì dán chặt vào Reginald, nó khẽ khịt mũi, như thể xung quanh đang vẩn lên một thứ mùi kinh tởm. Xoẹt, thêm một nhát. Chúng hiểu!

“Thế mẹ có thể hỏi con định đi đâu không?” bà mẹ hỏi.

Cuối cùng cũng xong, Reggie rảo bước quay đi, không chậm lại cho đến khi khuất tầm nhìn ngôi nhà và đã được nửa đường đến nhà Đại tá Proctor. Mãi lúc ấy anh mới nhận ra đó là một buổi chiều tuyệt diệu. Cả sáng nay trời mưa - mưa cuối hè ấm áp, nặng hạt nhưng chóng tạnh, giờ thì bầu trời thật trong, chỉ phất phơ một dải mây dài như đàn vịt con lướt qua rừng. Gió lơ thơ lay những giọt nước cuối cùng còn vương trên cây; một ngôi sao còn vương hơi ấm mùa hè vỡ trên tay anh tung tóe. Ping! - một ngôi sao khác rơi trên mũ. Con đường vắng lấp loáng, hàng rào nồng hương thạch nam, những bông thục quỳ trông thật to, thật rạng rỡ trong những khu vườn nhà tranh mái rạ. Nhà Đại tá Proctor đây rồi! Anh đặt tay trên cổng, khuỷu tay quờ trên bụi tử đinh hương, cánh hoa và phấn hoa vương đầy tay áo. Nhưng hượm đã. Sao nhanh thế này. Anh muốn rà lại toàn bộ - nào, bình tĩnh. Nhưng lúc này anh đã bước lên lối đi, hai bên là những bụi hoa hồng lớn. Cứ thế mà tiếp tục ư? Tay anh đã nắm lấy cái chuông, kéo mạnh và bắt đầu giật điên cuồng, như thể anh đến để báo rằng nhà đang cháy. Người giúp việc chắc hẳn cũng đang trong hành lang: cửa mở ngay, và Reggie hốt nhiên thấy mình bị đẩy vào phòng khách hoang vu, giữa tiếng chuông quái đản vẫn chưa ngừng hẳn. Thật kỳ lạ, căn phòng tối tăm lạnh vắng - cái ô của ai đó nằm lặng trên cây dương cầm lớn - bỗng bóp nghẹt anh, trong nỗi căng thẳng và phấn khích đồng thời. Lặng lẽ, lặng lẽ tuyệt đối. Trong khoảnh khắc, cánh cửa sẽ mở, và số phận của anh sẽ được định đoạt. Cảm giác không khác gì khi đi nha sĩ; anh thấy mình đã liều lĩnh đến bất chấp. Nhưng cùng lúc, anh kinh ngạc nghe tiếng mình lẩm bẩm: “Lạy Chúa, Chúa biết, Chúa đã không làm được gì nhiều cho con…” Cái câu ấy kéo anh đứng dậy và một lần nữa nhận ra tình thế đã trở nên nghiêm trọng đến độ nào. Quá muộn rồi. Tay nắm đã xoay. Anne vào, lướt qua khoảng không tối tăm ngăn cách, đưa tay cho anh. Giọng nói nhẹ bỗng vang lên, “Rất tiếc, bố tôi đi vắng, còn mẹ tôi đã xuống phố mua mũ. Chỉ có tôi ở đây tiếp anh thôi, Reggie.”

Reggie hổn hển ấn mũ vào khuy áo khoác, lắp bắp: “Thật ra, tôi chỉ đến… để nói lời tạm biệt.”

“Ồ!” Anne khẽ kêu lên - nàng lùi xa anh, đôi mắt xám của nàng chờn vờn xao động - “kỳ nghỉ này của anh ngắn quá!”

Rồi nghiêng cằm nhìn anh, nàng bỗng bật cười - một tràng cười dài rất nhẹ và lại bước xa thêm, đến chỗ cây đàn, dựa vào đó, nghịch những tua rua của cái ô.

“Tôi xin lỗi,” nàng nói, “vì đã cười như thế. Tôi không biết tại sao tôi làm vậy. Chỉ là một thói quen xấu…” Và đột nhiên nàng giậm mạnh chiếc giày xám, rút khăn tay khỏi chiếc áo khoác len màu trắng. “Tôi phải tìm cách chặn nó lại, thật dớ dẩn,” nàng nói.

“Chúa ơi, Anne,” Reggie kêu lên, “Tôi thích nghe cô cười! So với nó, chẳng có gì…”

Nhưng sự thật là - và cả hai đều biết điều này, không phải lúc nào nàng cũng đột nhiên bật cười; đó không phải là thói quen của nàng. Chỉ từ ngày họ gặp nhau, kể từ giây phút đầu tiên, vì một lý do kỳ lạ nào đó mà Reggie cầu Chúa mình hiểu được, Anne mới bật cười không kiểm soát. Nhưng tại sao? Dẫu họ đang ở đâu, đang nói chuyện gì, họ có thể cố giữ vẻ nghiêm túc, cực kỳ nghiêm túc, nhưng rồi đột nhiên, ngay giữa câu nói, Anne sẽ nhìn anh, một thoáng run rẩy lướt qua gương mặt nàng, môi nàng hé mở, mắt nàng xao động chờn vờn và nàng bật cười không cách nào kìm được.

Kỳ lạ ở chỗ Reggie cảm thấy chính nàng cũng không hiểu tại sao mình lại cười. Anh thấy nàng quay đi, cau mày, hóp má, áp tay vào nhau. Nhưng vô ích. Chuỗi âm thanh dài nhẹ nhõm ấy vẫn thoát ra, kể cả khi nàng đang khóc, “Tôi chẳng biết sao mình lại cười nữa.” Đó là một bí ẩn…

Nàng đã cất cái khăn đi.

“Anh ngồi đi,” nàng nói. “Anh hút thuốc chứ? Có thuốc lá trong cái hộp nhỏ bên cạnh đấy. Tôi cũng sẽ làm một điếu.” Anh châm lửa cho nàng, và khi nàng cúi người về phía trước, anh nhìn ngọn lửa nhỏ bừng lên trong chiếc nhẫn ngọc trai trên tay nàng. “Ngày mai anh mới đi phải không?” Anne hỏi.

“Phải, ngày mai - như mọi lần,” Reggie nói, thổi ra một làn khói nhỏ. Sao anh căng thẳng đến vậy? Không, căng thẳng không phải là từ đúng cho cảm giác này.

“Chính tôi cũng không tin được,” anh lại nói.

“Thật ư?” Anne khẽ hỏi. Nàng cúi người, lăn đầu điếu thuốc quanh chiếc gạt tàn màu lục. Trông nàng mới kiều diễm làm sao! Và thật nhỏ bé trên chiếc ghế mênh mông. Tim Reginald tràn ngập niềm dịu dàng, nhưng giọng nàng, giọng nói nhẹ như gió của nàng, lại khiến anh run sợ. “Sao tôi thấy như thể anh đã ở đây rất nhiều năm,” nàng nói.

Reginald hít một hơi thuốc sâu. Anh nói: “Thật kinh khủng khi nghĩ đến việc phải quay lại đó.”

“Coo-roo-coo-coo-coo,” một chuỗi âm thanh vang lên từ lặng yên thăm thẳm.

“Nhưng anh thích ở đó mà, phải không?” Anne nói. Nàng mân mê ngón tay trên chiếc vòng cổ ngọc trai. “Tối hôm trước cha tôi mới nói rằng anh thật may mắn khi được độc lập, tự do tự tại.” Và nàng ngước nhìn anh. Reginald cười u ám. “Tôi thì lại không thấy mình đặc biệt may mắn,” anh đáp khẽ.

“Roo-coo-coo-coo,” âm thanh ấy lại vang lên. Anne thì thầm, “Ý anh là… cô đơn?”

“Ồ, không, tôi không sợ cô đơn,” Reginald nói, và anh tàn nhẫn cắm phập điếu thuốc lên chiếc gạt tàn màu lục. “Tôi có thể chịu đựng bất kỳ loại cô đơn nào, thậm chí tôi từng thích nó. Nhưng việc phải…” Đột nhiên, anh kinh hoàng nhận ra mình đang đỏ mặt.

“Roo-coo-coo-coo! Roo-coo-coo-coo!”

Anne bật dậy. “Anh phải qua tạm biệt mấy con bồ câu của tôi nữa,” nàng nói. “Chúng đã được mang ra hiên. Anh thích bồ câu phải không, Reggie?”

“Rất thích,” Reggie nói, nhiệt thành đến độ khi anh mở cánh cửa kiểu Pháp cho nàng và đứng sang bên, Anne đã lao tới và cười lũ bồ câu thay vì cười anh.

Hai con bồ câu đi tới đi lui trên nền cát đỏ mịn trong chuồng - con sau con trước. Một con chạy tới, kêu khẽ một tiếng; con kia theo sau, ngoan ngoãn cúi đầu. “Anh thấy đấy,” Anne giải thích, “phía trước là bà Bồ Câu. Nàng nhìn ông Bồ Câu, cười thật nhẹ rồi chạy về phía trước; ông Bồ Câu đi theo, chỉ lầm lũi cúi đầu. Rồi bà Bồ Câu lại cười. Nàng chạy đi, và theo sau nàng,” Anne kêu lên, ngồi thụp xuống, "là chàng Bồ Câu tội nghiệp, chỉ biết cúi đầu, cúi đầu đi tiếp… đời chúng là thế. Chỉ thế thôi - chẳng bao giờ làm gì khác, anh thấy đấy. Nàng đứng dậy, lấy mấy hạt vàng từ một cái túi trên mái chuồng. “Nếu ở Rhodesia mà anh có nghĩ về chúng thì ít nhất anh cũng biết chắc chúng đang làm gì…”.

Reggie chẳng có vẻ gì là đã thấy lũ bồ câu hay đã nghe thấy lời nào của Anne. Trong khoảnh khắc ấy, anh chỉ ý thức được một điều - phải làm sao để xé toang bí mật của mình và trao nó cho nàng. “Anne, cô nghĩ cô có thể nào dành tình cảm cho tôi không?” A, xong rồi! Kết thúc rồi. Và trong khoảng im lặng ngắn ngủi tiếp sau, Reginald thấy khu vườn bỗng sáng lòa, bầu trời xanh run rẩy, lá rung rinh trên các cột hiên, và ngón tay Anne mân mê những hạt ngô trên lòng bàn tay. Rồi nàng từ từ nắm tay lại, và thế giới vừa sáng lên thoắt mờ đi khi nàng chậm rãi thì thầm, “Không, không phải theo cách đó.” Nhưng anh gần như không có thời gian để cảm nhận bất cứ điều gì - nàng đã quay bước, và anh đờ đẫn theo nàng xuống thềm, dọc lối vườn, dưới những vòm hồng la đà, băng qua bãi cỏ. Ở đó, với khung cảnh xanh tươi bừng sáng sau lưng, Anne quay mặt nhìn Reginald. “Không phải là tôi không quý anh,” nàng nói. “Tôi quý anh lắm. Nhưng…” - đôi mắt nàng mở to - “không phải theo cách” - một thoáng run rẩy lướt qua gương mặt nàng - “một người thích một người.” Môi nàng hé mở, và nàng không kìm được nữa. Nàng lại bắt đầu cười. “Đó, anh thấy đấy, anh thấy đấy,” nàng kêu lên, “cái… cái cà vạt sọc của anh. Kể cả lúc này, đáng ra phải nghiêm trang, cái cà vạt của anh vẫn làm tôi nhớ đến cái nơ trên cổ lũ mèo trong tranh! Ôi, xin hãy tha thứ cho tôi vì đã tệ hại thế này!”

Reggie nắm lấy bàn tay nhỏ và ấm của nàng. “Không đời nào tôi tha thứ cho cô,” anh nói nhanh. “Làm sao có thể? Tôi tin là tôi biết tại sao tôi khiến cô cười. Cô vượt trội tôi về mọi mặt - bởi thế cô thấy tôi nực cười, phải không? Tôi hiểu lắm, Anne. Nhưng nếu tôi phải…”

“Không, không.” Anne siết chặt tay anh. “Không phải thế. Hoàn toàn không đúng. Tôi không có gì vượt trội anh. Anh tốt hơn tôi nhiều. Anh không vị kỷ… anh tốt bụng và chân thật. Tôi thì không hề. Anh không biết tôi đâu. Tính tình tôi tệ lắm,” Anne nói. “Xin đừng ngắt lời tôi. Thêm nữa, vấn đề không nằm ở đó. Vấn đề là…” - nàng lắc đầu - “Tôi không thể cưới một người đàn ông mà tôi đã cười cợt. Hẳn anh cũng thấy điều đó. Người đàn ông mà tôi có thể lấy làm chồng…” Anne thở nhẹ. Nàng ngừng lời. Nàng rút tay ra, nhìn Reggie, mơ màng mỉm cười. “Người đàn ông mà tôi lấy làm chồng…”

Reggie thấy như thể vừa hiện ra một người lạ cao lớn, khôi ngô - hắn bước đến trước mặt anh và thế chỗ anh - dạng đàn ông mà Anne và anh vẫn thường thấy ở nhà hát, kẻ như từ hư vô bước thẳng lên sân khấu và bất thần dang tay bắt lấy nữ chính rồi sau một cái nhìn thật lâu, thật lâu, bế cô nàng đi bất kỳ đâu…

Reggie cúi đầu trước viễn tượng ấy. “Tôi hiểu,” giọng anh khàn đục.

“Thật ư?” Anne nói. “Ôi, tôi hy vọng anh thực sự hiểu. Bởi vì tôi thấy rất tệ về việc này. Thật khó giải thích. Anh biết là tôi chưa bao giờ…” Nàng ngừng lại. Reggie nhìn nàng. Nàng lại bật cười. “Thật buồn cười phải không?” nàng nói. “Tôi có thể nói bất cứ điều gì với anh. Ngay từ đầu…”

Anh gượng cười, “Hân hạnh.” Nàng tiếp tục. “Chưa bao giờ tôi quý ai như anh. Chưa có người nào làm tôi vui đến thế. Nhưng tôi chắc chắn đó không phải là tình yêu - không phải là tình yêu mà thiên hạ và sách vở thường nói tới. Anh hiểu chứ? Ôi, giá như anh biết tôi cảm thấy tệ đến thế nào. Nhưng chúng ta sẽ giống như… như ông bà Bồ Câu mất.”

Vậy đó! Câu ấy với Reginald dường như là phán quyết cuối cùng, và sự thật khủng khiếp đến độ anh thấy mình khó lòng kham nổi. “Cô không cần kết luận nữa đâu,” anh nói, rồi quay khỏi Anne, hướng mắt về phía bãi cỏ. Hiện ra cuối tầm mắt là ngôi nhà tranh của người làm vườn, bên cây nhựa ruồi lá sẫm. Một làn khói xanh trong và ướt lơ lửng trên ống khói. Mọi thứ có vẻ thật hư ảo, phi thực. Cổ họng anh bỗng đau nhói! Anh có thể cố nói một lời cuối không? “Tôi phải về thôi,” giọng nói trầm đục như vô thanh cất lên, anh lao mình qua bãi cỏ. Nhưng Anne đã chạy theo anh. "Không, đừng. Anh chưa thể đi được, nàng khẩn khoản. “Tôi không thể để anh đi trong khi cảm thấy thế này.” Và nàng nhìn anh trân trối - cau mày, cắn môi.

“Ồ, không sao đâu,” Reggie nói, cố định thần. “Tôi sẽ… tôi sẽ…” và anh khoát tay như muốn nói “sẽ vượt qua.”

“Nhưng kinh khủng quá, kinh khủng quá,” Anne nói. Nàng chắp tay đứng trước mặt anh. “Chắc chắn anh cũng thấy việc chúng ta kết hôn sẽ nguy hiểm đến thế nào, phải không?”

“Ồ, phải, phải,” Reggie nói, đôi mắt trống trải chĩa vào nàng.

“Tôi biết cảm giác này của tôi là sai trái, là độc ác. Ý tôi là, giống ông bà Bồ Câu cũng có sao. Nhưng cứ tưởng tượng điều đó trong đời thực…”

“Ồ, chắc chắn rồi,” Reggie nói, và anh lại bắt đầu rảo bước. Nhưng một lần nữa Anne ngăn anh lại. Nàng kéo tay áo anh, và trước sự ngạc nhiên của anh, lần này, thay vì cười, nàng trông như một cô bé con chực khóc.

“Vậy thì tại sao, nếu anh hiểu, tại sao anh lại không vui?” nàng rên rỉ. “Sao anh lại bận tâm về chuyện này? Sao trông anh buồn bực thế?”

Reggie nuốt nước bọt, và một lần nữa anh khoát tay như thể cố xua một điều gì đó đi. “Chẳng khác được,” anh nói, “Tôi vừa chịu một cú sốc. Nếu đi ngay, tôi sẽ có thể…”

“Sao anh có thể nói đến việc đi ngay?” Anne cay đắng. Nàng giậm nghiến chân vào Reggie; mặt đã đỏ rực. “Sao anh tàn nhẫn thế? Tôi không thể để anh đi cho đến khi biết chắc rằng anh sẽ vẫn hạnh phúc như trước khi ngỏ lời cầu hôn tôi. Chắc chắn anh hiểu… một chuyện đơn giản như thế.”

Nhưng chuyện này dường như không hề đơn giản với Reginald. Ngược lại.

“Ngay cả khi tôi không thể kết hôn với anh, thì làm sao tôi có thể chịu được việc anh phải đi xa như thế và chẳng thể viết thư cho ai ngoài người mẹ tồi tệ của anh, rằng anh khốn khổ, và rằng tất cả là lỗi của tôi?”

“Đó không phải lỗi của cô. Đừng nghĩ vậy. Đó chỉ là số phận.” Reggie gỡ tay nàng ra khỏi áo, hôn lên nó. “Đừng thương hại tôi, Anne bé bỏng,” anh dịu dàng nói. Và anh lại vùng chạy qua vườn, lao dưới những vòm hồng.

“Roo-coo-coo-coo! Roo-coo-coo-coo!” âm thanh từ hiên vọng tới. Và từ vườn, có tiếng gọi “Reggie, Reggie!”

Anh dừng bước. Anh ngỡ ngàng quay lại. Nhưng khi nhìn thấy vẻ rụt rè bối rối của anh, nàng khẽ cười.

“Quay lại đi, ông Bồ Câu,” Anne nói. Và Reginald từ từ băng qua bãi cỏ.

(rút từ tập Tiệc vườn, An Thanh dịch)



Lửa địa ngục

“Max, tên ngốc kia, cậu sẽ gãy cổ nếu phi xuống đường trượt theo cách đó. Thôi bỏ đi, cùng tôi vào Câu lạc bộ dùng chút cà phê nào.”

“Hôm nay thế là đủ. Tôi ướt nhẹp rồi. Victor, ông bạn, đưa chúng tôi điếu thuốc đi. Bao giờ anh về?”

“Phải cả tiếng nữa. Chiều nay trời đẹp, và tôi đang đạt phong độ. Cẩn thận, tránh đường nào; Fräulein Winkel tới đây. Cách cô ấy điều khiển xe trượt thật duyên dáng chết thôi!”

“Tôi lạnh toát. Điều tệ hại nhất ở nơi này… sương mù… thành ra rét ẩm. Đây, Forman, để mắt tới cái xe trượt này… và nhét vào đâu đó để sáng mai tôi có thể lấy ra mà không cần tìm giữa cả trăm rưởi cái xe khác.”

Họ ngồi quanh một bàn cà phê nhỏ gần lò sưởi và gọi cà phê. Victor thõng thượt trên ghế, vỗ con chó nhỏ màu nâu Bobo của anh ta và nhìn, có phần trêu cợt, sang Max.

“Chuyện gì thế, anh bạn? Thế giới chẳng tốt đẹp hay sao?”

“Tôi muốn cà phê và muốn nhét chân vào túi áo… chúng như đá rồi… Chả có gì ăn, xin cảm ơn… bánh ở đây chẳng khác nào cao su tự nhiên chưa nấu chín.”

Fuchs và Wistuba tới ngồi chung bàn với họ. Max hơi xoay lưng và duỗi chân về phía lò sưởi. Ba người đàn ông kia đồng thời cất tiếng - nói về thời tiết - nói về cú trượt kỷ lục - nói về điều kiện tốt ở Wald See cho việc trượt tuyết.

Bỗng Fuchs nhìn Max, nhướn mày và hất hàm với Victor ở đối diện; Victor lắc đầu.

“Cậu chàng thấy không khỏe,” anh ta nói, cho con chó nâu ăn những mẩu đường vỡ, “và chớ ai quấy rầy cậu ấy… tôi làm y tá cho.”

“Lần đầu tiên tôi thấy cậu ấy mệt,” Wistuba tiếp. “Tôi cứ ngỡ cậu ấy luôn chiếm phần hơn ở đời, chẳng thể bứt được khỏi tay. Tôi nghĩ đêm nay cậu ấy phải cầu nguyện Đức Chúa đã tránh cho cái kiếp nạn bị đưa về nhà trong bảy cái giỏ đầy. Chỉ kẻ ngốc mới chơi liều tất tật như thế, và để nước nhà hoang vu.”

“Im đi,” Max nói. “Anh thì đáng ngồi xe nôi cho người ta đẩy đi trên tuyết.”

“Ôi, mong là không xúc phạm đến cậu. Đừng cáu… Vợ cậu sao rồi, Victor?”

“Cô ấy không khỏe chút nào. Đầu cô ấy bị đau lúc trượt xuống cùng Max hôm Chủ nhật. Tôi dặn cô ấy ở nhà cả ngày.”

“Tôi rất tiếc. Mấy cậu về thị trấn hay ở đây thêm một lúc?”

Fuchs và Victor nói sẽ ở lại - Max không trả lời, nhưng ngồi thần ra đó khi những người khác trả tiền cà phê và đi mất. Chốc sau, Victor quay lại và đặt tay lên vai anh.

“Anh bạn, nếu cậu về ngay, tôi mong cậu tìm gặp Elsa và nói với cô ấy rằng muộn tôi mới về. Và tối nay cậu dùng bữa với chúng tôi ở Limpold, nhé? Hãy uống ít rượu grog nóng khi về.”

“Cảm ơn ông bạn, tôi ổn. Về ngay đây.”

Anh đứng dậy, duỗi người, cài khuy chiếc áo khoác dày nặng và châm thêm một điếu thuốc lá.

Từ cửa, Victor trông anh dấn qua màn tuyết dày - đầu cúi - tay nhét trong túi áo - gần như chạy xuyên màn tuyết dày đặc về thị trấn.

Tiếng ai đó giậm mạnh trên thang - ngừng lại trước cửa phòng khách, rồi gõ cửa.

“Phải anh không, Victor?” nàng gọi.

“Không, là tôi… tôi vào được không?”

“Tất nhiên. Sao thế, ông già Nô-en! Treo áo ở chiếu nghỉ và giũ người qua lan can đi. Chơi vui chứ?”

Căn phòng tràn ngập ánh sáng và hơi ấm. Elsa, trong bộ váy mặc nhà màu trắng, nằm thu mình trên sofa - một quyển sách về thời trang trên đùi, cạnh bên là một hộp kem.

Rèm cửa sổ chưa kéo, có ánh sáng xanh rọi qua, và những nhánh cây trắng in rải rác trên nền.

Phòng của một phụ nữ - nào hoa, nào ảnh, nào gối tơ tằm - sàn trải thảm - một tấm da hổ lớn dưới đàn piano - riêng cái đầu ngóc lên - mơ màng dã tính.

“Cũng khá,” Max nói. “Victor phải muộn mới về. Anh ấy bảo tôi tới nói với cô.”

Anh bắt đầu đi qua đi lại - rút phăng găng tay ném lên bàn.

“Chớ làm thế, Max,” Elsa nói, “anh làm tôi khó ở đấy. Mà tôi đang cơn đau đầu, hôm nay; tôi sốt và hơi bừng lên… Trông tôi hây hây đúng không?”

Anh dừng chân bên cửa sổ, thoáng liếc nàng qua vai.

“Không; tôi không để ý thấy.”

“Ôi, anh chưa hề nhìn tôi cho kỹ, và tôi cũng mặc váy mới đây này.” Nàng kéo tà váy lại và vỗ xuống một chỗ nhỏ trên sofa.

“Tới đây ngồi cạnh tôi, và nói xem sao anh lại hư thế.”

Nhưng, vẫn đứng bên cửa sổ, anh chợt vung tay che mắt mình.

“Ôi, tôi không thể. Tôi xong rồi… kiệt quệ… tàn tạ rồi.”

Căn phòng lặng phắc. Cuốn sách thời trang rơi xuống sàn, hơi loạt soạt tiếng giấy. Elsa ngồi thẳng dậy, hai bàn tay ấp vào nhau trên đùi; một tia sáng lạ lùng ngời lên trong mắt, sắc đỏ loang lên môi.

Rồi nàng khẽ khàng nói.

“Tới đây và giải thích xem. Tôi không hiểu anh đang nói chuyện quái gì.”

“Cô biết chứ… cô biết hơn tôi nhiều. Với Victor, cô chỉ đùa nghịch khi có mặt tôi để tôi thấy tệ hơn. Cô hành hạ tôi… dẫn dụ tôi… mời mọc tôi đủ điều và rồi chẳng gì hết. Từ đầu tới cuối là một vụ nhện bẫy ruồi… chưa thời khắc nào tôi không hay biết… mà cũng chưa thời khắc nào tôi đủ sức chịu đựng.”

Anh từ tốn xoay mình.

“Cô cho rằng khi nhờ tôi gài hoa lên váy dạ hội… để tôi vào phòng ngủ khi vắng mặt Victor trong lúc cô làm tóc… vờ làm em bé để tôi bón nho cho… chạy tới chỗ tôi và lục tìm thuốc lá khắp các túi áo… dù biết mười mươi chúng ở đâu… tôi cũng biết… tôi cũng hùa theo những trò ấy… cô cho rằng lửa hội đã thắp, cô sẽ thấy đó là thứ yên vui… cô sẽ ngăn được cả ngôi nhà cháy rụi hay sao?”

Nàng thoắt trở nên trắng bệch, hít mạnh một hơi.

“Đừng nói như vậy với tôi. Anh không có quyền nói với tôi như vậy. Tôi là vợ người khác.”

“Hừm,” anh cười nhạo, hất đầu ra sau, “đến bước này của trò chơi, thì nói đã muộn, mà trước nay ấy là quân át chủ bài của cô còn gì. Cô chỉ yêu Victor vì thể diện… cô, con mèo nhỏ đói khát tội nghiệp anh ta đã trao tất thảy, nâng niu trong ngực, không tưởng được những cái vuốt hồng xinh xẻo kia có thể móc lấy trái tim người đàn ông.”

Nàng cựa quậy, đôi mắt nhìn anh gần là nỗi sợ.

“Dẫu sao” - nàng nói không vững - “đây là phòng tôi; tôi sẽ phải yêu cầu anh đi.”

Nhưng anh loạng choạng tới chỗ nàng, quỳ xuống cạnh sofa, chôn đầu trên đùi nàng, và vòng tay siết lấy eo nàng.

“Và tôi yêu em… tôi yêu em; nỗi sỉ nhục đó… tôi si mê em. Đừng… đừng… để tôi ở đây chỉ một phút thôi… chỉ một khoảnh khắc suốt đời này… Elsa! Elsa!”

Nàng ngả ra sau, đầu chìm trong gối.

Rồi giọng anh nghèn nghẹt: “Tôi thấy như loài dã thú. Tôi muốn toàn bộ thân thể em. Tôi muốn mang em xa tới một cái hang và yêu em tới giết chết em… em không hiểu cảm giác của đàn ông đâu. Tôi giết chính mình khi gặp em… tôi phát ốm vì thứ sức mạnh bản thân đã đầu hàng chính nó, rồi chết, rồi tái sinh như phượng hoàng từ tàn tro của cái chết thảm thương. Hãy yêu tôi một lần này thôi, nói với tôi một lời dối trá, nói rằng em yêu tôi… em nói dối luôn luôn.”

Trái lại, nàng đẩy anh ra xa - hãi hùng.

“Đứng dậy; nhỡ người hầu mang trà vào thì sao?”

“Ôi, trời hỡi!” Anh loạng choạng đứng dậy, nhìn xuống nàng đăm đăm.

“Em thối rữa tận gốc và tôi cũng vậy. Nhưng em đẹp một vẻ ngoại đạo.”

Người phụ nữ bước tới đàn piano - đứng đó - đánh một nốt - đôi mày chau lại. Rồi nàng nhún vai, mỉm cười.

“Để tôi thú nhận. Từng từ anh nói đều đúng. Tôi không cưỡng nổi. Tôi không thể thôi kiếm tìm sự ái mộ hơn là một con mèo cưỡng lại việc tới cạnh người để được vuốt lông. Đó là bản tính. Tôi đã sinh nhầm thời. Thế nhưng, anh biết đấy, tôi đâu phải đàn bà thông thường. Tôi thích đàn ông mê mệt mình… tán tụng mình… kể cả làm tình với mình… nhưng sẽ chẳng bao giờ tôi dâng mình cho bất cứ ai. Thậm chí… tôi sẽ không để ai hôn.”

“Vậy càng thậm tệ… cô không có lý do chính đáng. Sao nào, cả một con điếm cũng có lòng hào phóng hơn!”

“Tôi biết, tôi biết tuyệt đối rõ… nhưng trời sinh như thế, biết làm gì đây… Anh đi chưa?”

Anh đeo găng.

“Vậy, giờ chúng ta sẽ ra sao?”

“Tôi đâu hề biết. Có bao giờ tôi… cứ để mọi việc xảy đến thôi.”

“Mỗi mình em?” Victor kêu lên. “Max tới đây chưa?”

“Anh ta chỉ ở một lát, còn chẳng uống trà. Em đã bảo anh ta về thay quần áo… Anh ta tẻ phát sợ.”

“Em yêu tội nghiệp, tóc em rơi xuống này. Anh sẽ sửa, em đứng yên một lát… vậy là em chán?”

“Ừmm… phát hãi… Ôi, anh vừa chọc cái kẹp tóc vào đầu vợ anh đấy… thật hư quá!”

Nàng quàng tay qua cổ chồng và ngước nhìn anh, pha nét cười, trông như một đứa trẻ xinh đẹp, âu yếm.

“Chúa ơi! Một phụ nữ như em,” người đàn ông nói. “Em làm anh tự hào ghê gớm… em yêu quý, tới mức anh… anh cho em hay!”

(rút từ tập Ở nhà trọ Đức, Chi Quân dịch)

Tags: Katherine Mansfield