Khác Đọc

Cộng hòa những ước mơ

Bruno Schulz

[Bruno Schulz không viết nhiều tác phẩm, nhưng tác phẩm của Bruno Schulz cũng không chỉ hoàn toàn nằm trong hai tập truyện ngắn: trong Những hiệu quế mà Xuất bản Khác đã in, có “Sao chổi” là một truyện về sau mới được tìm ra. Tới đây, chúng tôi cũng sẽ in nốt tập truyện còn lại, với nhan đề có từ “Dưỡng đường”.

Ngoài “Sao chổi”, còn có một số truyện ngắn khác của Bruno Schulz mà người ta tìm lại được, sau này. “Cộng hòa những ước mơ” là một trong số đó. Trong suốt nhiều chục năm, sự tìm kiếm trong địa hạt Bruno Schulz được nhiều người thực hiện; mỗi mảnh nhỏ lôi được ra khỏi lãng quên là cả một chiến công lớn.

Tác phẩm của Bruno Schulz không chỉ gồm các truyện, mà còn có một số tiểu luận, cũng như thư. Xuất bản Khác mong một ngày sẽ in được mọi thứ gì Bruno Schulz, nhà văn hết sức đặc biệt ấy, từng viết.

“Cộng hòa những giấc mơ” dưới đây được Trương Thu Hà dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan.]

Tại đây trên con đường rải đá của Vác-sa-va, vào những ngày ồn ào, náo nhiệt, chói chang và gây choáng ngợp, bằng ý nghĩ tôi dịch chuyển sang thành phố xa xôi của những ước mơ tôi, đưa mắt lên phía trên cao đất nước này, thấp, mênh mông và nhấp nhô, như tấm áo choàng của Chúa rơi xuống thành tấm bạt nhiều màu sắc nơi cácngưỡng cửa trời. Bởi cả đất nước này chịu hàng bầu trời, mang nó phía trên mình, nó được lợp sặc sỡ, tầng tầng lớp lớp, đầy những hồi lang[1], những triforium[2], những cửa sổ hoa hồng và những ô cửa nhỏ, đến vĩnh cửu. Đất nước này mỗi năm ăn sâu vào bầu trời, bước vào hiện tượng cực quang, cả vùng đất tự hóa thiên thần trong cácphản chiếu của bầu khí quyển khổng lồ.

Ở đó nơi địa đồ đất nước đang chuyển rất trưa rồi, rám vàng vì mặt trời, sầm tối và cháy sém vì thời tiết mùa hè, như một trái lê chín - nó nằm đó, như con mèo trong nắng - vùng đất được chọn này, cái tỉnh lạ kỳ gây chú ý này, thành phố duy nhất trên thế giới này. Là vô ích khi nói điều này cho những kẻ trần tục! Là vô ích khi giải thích, rằng bằng cái lưỡi dài dập dờn này của đất, đất nước đã thở hổn hển trong cái nóng như thiêu của mùa hè, bằng cái mũi đất đang ở trong đợt sóng nhiệt hướng về phía Nam, bằng một dải đường rìa cô đơn đâm vào giữa những ruộng nho Hung thẫm màu - đất nước hẻo lánh này tách biệt khỏi phổ của vùng và độc hành, trong lẻ loi, trên con đường hẳn luôn luôn đúng, thử tự mình trở thành một thế giới. Thành phố và vùng đất này khép mình vào một tiểu vũ trụ tự cấp, rủi ro thiết lập mình ngay trên bờ vực của cái vĩnh cửu.

Các mảnh vườn ngoại ô như thể đang đứng trên cạnh của thế giới và, qua những bờ giậu, nhìn vào cái vô biên của đồng bằng không tên. Ngay đây, sau mấy gác canh, địa đồ đất nước trở thành vô danh và tựa như vũ trụ, như Canaan[3]. Phía trên cái nóng như thiêu này của đất hẹp và vô tích sự, bầu trời một lần nữa đã mở ra, sâu hơn, thênh thang hơn bất cứ nơi nào khác, bầu trời rộng lớn, như mái vòm thánh đường, tầng tầng và có hấp lực, đầy những mảng tường bích họa và ngẫu tác còn dở dang, những thảm bay và những lần thăng thiên nhanh đột ngột.

Bộc lộ điều này ra thế nào đây? Khi các thành phố khác đã phát triển theo kinh tế, mọc cao về phía những con số thống kê, số lượng - thành phố của chúng tôi bước xuống phía cái tinh túy. Ở đây không gì diễn ra vô cầu, không gì xảy ra mà không có ý nghĩa sâu xa hay sự tiên liệu. Ở đây những sự kiện không phải là ảo ảnh thoáng qua trên bề mặt, ở đây chúng có cội rễ sâu trong mọi thứ và vươn đến cái cốt lõi. Ở đây mỗi chốc thứ gì đó đang tự xác quyết mình, độc đáo và không ngơi nghỉ. Cho nên tồn tại sự nghiêm trọng lớn lao, điểm nhấn sâu sắc, và nỗi buồn ở điều đang xảy ra.

Ví dụ bây giờ những khoảng sân ngập trong bụi tầm ma và cỏ dại, các túp lều và nhà kho xiêu vẹo và rong rêu đang lún sụp vào đám cải dại lớn leo lớp lớp tới tận rãnh nước trên những mái nhà gỗ lợp. Thành phố đứng đó với dấu ấn của cỏ dại, của đời sống thực vật hoang dã, nhiệt thành và có đức tin tuyệt đối, bắn lên thứ rau dợ rẻ và xoàng, độc, nhạt và ký sinh. Đám cỏ xanh được mặt trời thiêu trừ tà, những đường thở của lá đang hổn hển thứ diệp lục cháy bỏng - những đội quân tầm ma, um tùm và khát ngấu, đang ngoạm những loài hoa, và xông đến các mảnh vườn, qua một đêm đang lan phủ lấy những bờ tường sau nhà và kho không được ai nom dòm, sinh sôi trong các rãnh ven đường. Một điều thật kỳ lạ, thứ nhựa sống điên cuồng, vô ích và bất lợi ăn sâu trong phần nhỏ nhiệt thành của vật chất màu xanh này, trong thành phẩm của mặt trời và nước ngầm. Thoát ra từ nhúm diệp lục, trong những ngày này khi lửa lan, nó phát triển một mạng lưới um tùm và trống rỗng, mạng lưới những tế bào xanh, sản sinh trăm lần ra hàng triệu tán lá, chúng ánh xanh khi ánh sáng xuyên qua và gợn mao mạch, mờ soi thấy máu thảo mộc sũng nước, của thực vật, những tán lá rong rêu và tua tủa, có mùi cay, mùi cỏ dại và đồng ruộng.

Vào những ngày này, cửa sổ sau của nhà kho cửa tiệm luôn luôn hướng ra sân, đã thành quáng mù bởi nội nhũ xanh, đầy những óng ánh xanh, những phản chiếu của lá, những tiếng phần phật như của giấy nhăn, những mảng xanh dợn sóng, những um tùm ma quái của sự phì nhiêu gây thất kinh này của sân vườn. Khi đi xuống, vào sâu trong bóng đổ hun hút, nhà kho sột soạt chớp nhoáng tất cả các gam xanh, phản chiếu xanh tản ra dập dềnh qua cả độ sâu từ mái nhà vòm đến mặt đất, tựa như trong một cánh rừng rì rào.

Thành phố đã rơi vào cái um tùm này như thể vào một giấc ngủ trăm năm, thành phố bất tỉnh bởi lửa lan, điếc bởi tia sáng chói, và ngủ trong cái kén trăm lần dệt bởi tơ nhện, rậm rạp thảo mộc, hụt hơi và trống không. Trong những căn phòng xanh bìm bìm leo trên cửa, chìm dưới nước và đục mờ, như dưới đáy một cái lọ cũ những bộ tộc ruồi đang giãy chết, vĩnh viễn bị cầm tù và khóa kín trong tình trạng cận tử đau đớn, ngập những tiếng ta thán đơn điệu và lan man, tiếng vo ve giận dữ và bi thương. Cửa sổ từ từ gom góp vào mình quần thể động vật mỏng manh vương vãi cho sự hiện tồn cuối cùng trước giờ tử: lũ muỗi chân dài lớn đã do thám những bờ tường một thời gian dài bằng tiếng rung khẽ của những cái đập cánh sai, trước khi hạ cánh hẳn, sau cuối, xuống các tấm kính, bất động và chết, cả gia phả ruồi và côn trùng sinh sôi trên bậu cửa này, đẻ nhánh bằng cuộc hành hương chậm rãi qua những tấm kính, những thế hệ loài có cánh tinh vi, xanh óng, ánh kim loại và như thủy tinh được sinh ra.

Phía trên bậu kính trưng bày của cửa tiệm, khẽ phần phật trong luồng gió nóng những tấm bạt căng lớn, sáng, mù và cháy những hàng ngang và dập dờn trong tia nắng chói chang. Mùa chết lấn lướt trên các quảng trường trống, trên những con đường bị gió quét. Những chân trời xa dâng tụ lại nơi những khu vườn, đứng trong ánh sáng chói của bầu trời, chói lòa và hôn mê, như thể vừa mới gọi bầy thành một tấm bạt khổng lồ, sáng rực, từ những vùng đất hoang vắng trên trời xanh - sáng, cháy, bị đường bay xé mảnh - và một lát sau sẽ kiệt quệ hẳn, đang chờ chuyến hàng ánh sáng mới, ở trong đó chúng sẽ tự tươi mới lại.

Trong những ngày này thì làm gì chứ, trốn chạy đi đâu khỏi cái nóng như thiêu này, khỏi giấc ngủ nặng nề, đang đập dội vào lồng ngực qua tay con ác ma trong mộng vào một giờ chiều nóng bức? Trong những ngày này, đã có khi, mẹ thuê một cỗ xe ngựa và ngồi chật ních trong cái thùng đen của nó tất cả chúng tôi rời đi - những chủ thể trên yên ngựa cùng đống hành lý nặng, hoặc bị gia cố vào bộ phận giảm xóc - khỏi thành phố, đến “Dốc”. Chúng tôi đi vào một vùng cảnh sắc nhấp nhô, dập dờn. Kiệu nhọc nhằn cô đơn leo dốc một lúc lâu trong nắng gắt giữa các lồi lõm của những cánh đồng, lún vào bụi vàng và nóng của con đường quê rộng.

Sống lưng của bọn ngựa gồng nhô lên, những cặp mông óng ánh chăm chỉ xoắn xít, chốc chốc được cỏ dại va vào phe phẩy. Những bánh xe lăn chậm, cót két trên các trục đường. Xe ngựa đi qua những đồng cỏ bằng phẳng vương vãi những ổ chuột chũi, ở giữa đó lũ bò duỗi người nằm rộng - tua tủa nhánh và sừng - những cái bọng đựng nước bằng da khổng lồ lồi lõm đầy xương, gốc cành khô và những đỉnh tháp kiểu pinnacle[4]. Chúng nằm đồ sộ, như những nấm mồ, trong ánh nhìn bình thản của chúng phản chiếu các chân trời đang trôi ở phía xa.

Cuối cùng chúng tôi cũng dừng lại ở “Dốc”, bên cạnh một trạm nghỉ[5] xây gạch và thoáng rộng. Nó đứng cô đơn trên một vùng sông nước, tự tách mình trên nền trời bằng mái trải rộng, trên đường biên cao chia hai vùng thoai thoải. Lũ ngựa trầy trật leo tới một mép cao, một mình chững lại trong tư lự, như thể đang trên gác canh rìa thành phố chia hai thế giới. Phía sau gác canh này mở ra tầm nhìn tới một vùng cảnh sắc rộng, bị những ngả đường cứa mảnh, bàng bạc và đang luân chuyển màu như một bức tranh thêu[6] nhợt nhạt, chìm trong bầu khí quyển khổng lồ, xanh thiên thanh và trống trải. Một luồng gió thức dậy từ đồng bằng xa và dập dềnh này, tốc những mái bờm ngựa lên ở bả vai và trôi dưới bầu trời cao và trong.

Chúng tôi dừng chân qua đêm ở đây, hoặc cũng là cha đã chỉ dấu và chúng tôi đi vào đất nước mênh mông này, như một tấm địa đồ, rẽ các nhánh đường ra rộng khắp. Trước chúng tôi trên những nẻo đường xa và ngoằn ngoèo những cỗ xe ngựa trông thấy lờ mờ trong cái khoảng cách xa này đang nhích dần, đã dẫn trước chúng tôi. Chúng kéo lê trên con đường quê giữa các bụi anh đào thẳng đến một vùng nước nguồn vào thời đó vẫn còn, nằm gọn trong thung lũng hẹp bị rừng phủ kín đầy những tiếng nước nguồn róc rách, tiếng nước rỉ và tiếng lá lao xao.

Vào những ngày xa xôi này lần đầu tiên chúng tôi cùng bạn bè đã có một suy nghĩ bất khả và phi lý nọ, là đi xa hơn nữa, ra ngoài vùng nước nguồn, đến đất nước không của riêng ai và do Chúa ban, đến vùng sát biên còn gây tranh cãi và trung lập, nơi những đường biên giới của các quốc gia mất phương hướng, còn bông hồng của gió thì quay mòng mòng lung tung dưới trời cao tầng tầng lớp lớp. Ở đó chúng tôi muốn đào mương đắp đê[7] quây dựng một biệt khu, không phụ thuộc vào người lớn, đi ra khỏi hoàn toàn phạm vi khu vực của họ, tuyên ngôn một cộng hòa những người trẻ tuổi. Ở đây chúng tôi phải tạo lập nền lập hiến mới và độc lập, dựng lên trật tự mới của các thước đo và giá trị. Đó phải là đời sống xoáy vào thơ ca và phiêu lưu, của những cháy sáng và ngỡ ngàng không ngơi nghỉ. Chúng tôi đã tưởng, rằng chỉ cần cơi nới các rào cản và biên giới của những quy ước, những ổ trục cũ, đã cố định chuyển động của các vấn đề nhân sinh, cốt để cơn tai biến bất kỳ ập vào đời sống của chúng ta, hiện tượng xâm thực nghiêm trọng của cái không thể đoán trước, trận lũ lụt của những cuộc phiêu lưu và những cốt truyện lãng mạn. Chúng tôi muốn đời sống của mình quy hàng dòng chảy của cơn tai biến đang truyện hóa mọi thứ ấy, quy hàng cơn thủy triều của những diễn biến và sự kiện dâng lên hưng phấn và để mình được bay lên và loang ra cho những đợt sóng trào này, trong trạng thái bị động và hiến dâng cho mình nó mà thôi. Linh hồn của tự nhiên chính ra lại là người kể chuyện cổ tích vĩ đại. Từ cội nguồn của nó chảy ra ào ạt một dòng nhiệt huyết các cốt truyện và tiểu thuyết, những tình khúc và sử thi. Cả bầu khí quyển bao la dồn nén đầy những ý truyện. Lúc đó chỉ cần đặt những cái bẫy dưới trời đầy những huyễn ảnh, ấn xuống một cái trụ, chơi trong gió, vậy là những mảnh tiểu thuyết ta bẫy được đã phập phồng quay quanh cái đỉnh ấy rồi.

Chúng tôi đã cả quyết sẽ dần tự cấp, sáng tạo quy tắc sống mới, lập nên kỷ nguyên mới, một lần nữa khai sinh ra thế giới trên phạm vi nhỏ mà đáng lẽ ra, chỉ dành cho chúng tôi, nhưng theo mỹ cảm và ý thích của chúng tôi.

Đó phải là một thành lũy, một blockhaus[8], một đơn vị được đê bao thống soát cả khu vực - phần thành lũy, phần nhà hát, phần nhà thí nghiệm tầm nhìn. Cả tự nhiên phải bị buộc vào quỹ đạo của nó. Như ở Shakespeare, nhà hát này chạy thoát về phía tự nhiên, không bị gì ngăn trở, lớn lên và bén rễ vào hiện thực, thu về mình động lực và khao khát từ mọi cơn tai biến, trôi dập dềnh theo các đợt triều lên xuống mạnh mẽ của các chu kỳ quay tự nhiên. Ở đây phải có nút thắt của mọi quá trình đang chạy qua cơ thể khổng lồ của tự nhiên, ở đây tất cả ý và cốt truyện, đã mờ hiện trong tâm hồn rộng lớn và phủ sương, phải đến và đi luôn luôn. Chúng tôi đã muốn, như Don Quixote, thông vào đời sống của mình con mương của tất cả những câu chuyện và tình khúc, mở biên độ sống tới tất cả mâu thuẫn, rối bời, nghịch cảnh, chúng cuốn vào nhau trong bầu khí quyển khổng lồ đang đấu giá cao trong các tưởng tượng hư ảo.

Chúng tôi đã mơ sao cho khu vực này bị mối hiểm nguy không xác định đe dọa, bị nỗi kinh sợ bí ẩn thử thách. Trước mối nguy và nỗi sợ ấy, chúng tôi tìm thấy trạm cứu hộ an toàn và trại tị nạn trong thành lũy của mình. Nên những đàn sói chạy qua khu vực, những băng đảng lưu manh lang thang quanh rừng. Chúng tôi đã lên kế hoạch bảo an và phòng thủ, đã chuẩn bị vây hãm những cái run rẩy sung sướng và nỗi sợ hãi dễ chịu tột bậc. Cánh cổng của chúng tôi đón những kẻ chạy trốn dưới lưỡi dao sát thủ. Họ tìm thấy ở chỗ chúng tôi nơi trú thân và sự an toàn. Những kiệu ngựa sang trọng bị các quái thú hoang dã truy đuổi phi tới trước cổng chúng tôi. Chúng tôi đón tiếp những người lạ tôn kính và bí ẩn. Chúng tôi lạc giữa những phỏng đoán, rất muốn thâm nhập vào bí mật xuất thân của họ. Tối tối mọi người tụ họp lại ở sảnh lớn, trong ánh sáng những ngọn nến lập lòe, chúng tôi nghe các câu chuyện và tín điều tiếp theo. Trong một khắc nhất định, mâu thuẫn xuyên suốt những truyện này thoát ra khỏi khung tự sự, đi vào giữa chúng tôi - tươi rói và khát tế vật, đã cuộn chúng tôi vào vòng xoáy nguy hiểm của nó. Những gợi nhớ bất ngờ, những phát hiện đột ngột, những cuộc gặp khó tin đã tràn vào đời sống riêng tư của chúng tôi. Chúng tôi đã đánh mất nền móng dưới chân mình, bị đe dọa bởi những nghịch cảnh mà chính chúng tôi đã dấy lên. Từ đằng xa vọng lại tiếng sói tru, chúng tôi ngẫm nghĩ về những rối bời lãng mạn, nửa bị kéo vào những vòng xoay của chúng, trong khi ngoài cửa sổ đêm sâu hun hút đang rì rào, đầy những khát vọng không thành lời, cháy bỏng và những tín điều vô biên, không đáy, dồi dào, nghìn lần rối rắm trong chính bản thân mình.

Không phải không có lý do mà những ước mơ xa xôi này quay trở lại vào ngày hôm nay. Một ý nghĩ nảy ra, rằng không ước mơ nào, dẫu cũng chẳng biết nó phi lý và vô nghĩa đến đâu, không hề phí hoài trong vũ trụ này. Trong ước mơ chứa đựng một cơn đói hiện thực nào đó, một truy cầu nào đó bắt hiện thực chịu trách nhiệm, nó kín đáo lớn lên thành quyền đòi nợ, thành mong cầu, thành tờ ghi nợ buộc phải trả thỏa đáng. Từ lâu chúng tôi đã từ bỏ những ước mơ của mình về thành lũy, còn đây là sau nhiều năm một ai đó đã xuất hiện, người đã túm đuôi chúng dựng lên, thực sự nắm lấy chúng, ai đó có sự ngây thơ và tin tưởng trong tâm hồn; người đã nhất nhất công nhận chúng đáng tin, dẫu còn hoài nghi, bắt tay vào thực hiện, như một vật đơn giản và vô hại. Tôi đã thấy anh, đã cùng nói chuyện. Anh có đôi mắt xanh thiên thanh đến khó tin, được tạo ra không phải để nhìn, mà chỉ để thăm thẳm tách mình ra khỏi phông nền trong ước mơ bằng màu xanh ấy. Anh kể, rằng khi tới những khu vực mà tôi nói, tới đất nước không tên, trong trẻo và không thuộc về ai - ngay lập tức anh đã thấy thơm mùi thơ ca và phiêu lưu, anh nhìn thấy trong không trung các đường viền có sẵn và ảo ảnh của huyền thoại đang treo lơ lửng phía trên khu vực. Anh nhận ra trong bầu khí quyển những hình thù được tạc mới của ý tưởng này, những sơ đồ, bản thiết kế và bảng. Anh nghe thấy lời mời gọi, tiếng nói nội tâm, giống như Noe[9] khi nhận những chỉ dụ và chỉ dẫn.

Linh hồn của ý tưởng này khi đi lạc trong bầu khí quyển đã viếng thăm anh. Nó tuyên ngôn một cộng hòa những ước mơ, một lãnh thổ toàn vẹn của thơ ca. Trên bằng đấy mẫu[10] đất, trên tấm bạt phong cảnh bị ném ra giữa các cánh rừng, nó tuyên bố quyền thống soát không thể bị chia cắt của tưởng tượng. Nó xác lập biên giới, xây móng dưới thành lũy, biến đổi khu vực thành một vườn hồng khổng lồ. Những phòng khách, những gian biệt lập cho việc cầu nguyện một mình, nhà ăn, phòng ngủ tu viện, thư viện… những lán trại cô đơn giữa công viên, những chòi vườn và gác quan sát[11] trên nóc nhà…

Người bị chó sói hoặc những kẻ sát nhân truy đuổi khó khăn chạy tới cổng thành lũy này - thì được cứu. Họ đưa anh vào chiến thắng tuyệt vời, cởi bỏ trang phục đã bám bụi. Lễ nghi, khoai khoái và hạnh phúc anh bước vào cánh đồng Elysium[12], vào vị ngọt thơm tựa hoa hồng của không khí. Những thành phố và công chuyện, những ngày và cơn sốt của chúng ở lại phía xa đằng sau anh. Anh đã bước vào quỹ đạo mới, lễ nghi và sáng rỡ, trút xuống, như cái vỏ, cơ thể của mình, cởi mặt nạ biểu cảm méo xệch đã gắn liền với khuôn mặt, hóa thân và giải phóng mình.

Người mắt xanh thiên thanh ấy không phải kiến trúc sư, mà là đạo diễn. Đạo diễn các phong cảnh và bối cảnh vũ trụ. Tài nghệ của anh nằm ở chỗ, là anh nắm được đằng chuôi những ý định của tự nhiên, là anh biết đọc thấu những khao khát ẩn sâu. Bởi tự nhiên mang chứa đầy nghệ thuật kiến trúc, thiết kế và xây dựng tiềm năng. Những người thợ xây của các thế kỷ lớn đã làm gì khác chứ? Họ đã lén nghe giọng hào sảng vang xa của những quảng trường rộng, họ đã cho ta tầm nhìn tương lai luônluôn biến chuyển, sự mô phỏng im lặng những trục đường đối xứng. Một hồi lâu trước điện Versailles các gợn mây trên nền trời bao la của tối mùa hè xếp thành những cung điện nguy nga trải rộng, những chốn cư ngụ lơ lửng và kiêu hãnh, đang thử sức mình trong những phóng tác sân khấu, xếp chồng, sắp đặt vĩ đại và phổ quát. Nhà hát lớn của bầu khí quyển vô biên này dồi dào khả năng trong những ý tưởng, trong việc kiến thiết, trong những bản hoạch định thu chi giữa không trung - đang ảo giác hóa kiến trúc vĩ đại hình thành nhờ khao khát này, biến kiến trúc đô thị siêu việt từ những đám mây trở thành.

Những tạo tác của con người mang đặc tính này, là, khi kết thúc, chúng tự đóng mình vào trong chính mình, tách rời tự nhiên, giữ ổn định theo quy tắc riêng. Tác phẩm của người mắt xanh thiên thanh đã không rời khỏi các mối quan hệ mang chiều kích vũ trụ, mà đang nằm im trong đó, được nhân hóa một nửa, như con Nhân Mã[13], được buộc vào những thời kỳ lớn của tự nhiên, còn chưa sẵn sàng và vẫn đang lớn. Người mắt xanh thiên thanh mời tất cả tiếp tục, xây dựng, cùng sáng tạo - tất cả chúng ta thực chất là những kẻ mộng mơ, những người anh em chung biểu tượng cái bay[14], chúng ta về bản chất là những người thợ xây…

Trương Thu Hà dịch


[1] Krużganek: một kiểu kiến trúc Ba Lan cổ hành lang chạy dọc theo tòa nhà, vòng quanh khoảng sân ở giữa, có thể quan sát tại lâu đài Wawel ở Kraków (người dịch - ND).

[2] Triforium: một chi tiết trong nhà thờ theo phong cách kiến trúc Gothic (ND).

[3] Canaan trong Kinh Thánh là vùng đất hứa của Chúa ban cho Abraham và hậu thế của ông (ND).

[4] Một kiểu tháp trong kiến trúc Gothic (ND).

[5] Karczma: nhà hàng ở quê, nơi dừng chân cho khách vãng lai (ND).

[6] Gobelin: vải trang trí nhờ kỹ thuật đắp vải hoặc thuê mà mô phỏng bức tranh (ND).

[7] Szaniec: kỹ thuật đào mương và đắp đê để che chắn các hạm đội pháo, được ứng dụng cho đến cuối thế kỷ XIX (ND).

[8] Blockhaus (tiếng Đức): tuyến phòng thủ (ND).

[9] Noe là nhân vậy trong Kinh Thánh, ở Sách Sáng Thế, đã nghe theo lời tiên tri của Chúa về một trận đại hồng thủy mà xây tàu cứu gia đình và chúng sinh.

[10] Trong nguyên tác là mórg (hoặc morga), một đơn vị đo diện tích đất được sử dụng ở một số nước ở châu Âu xưa (như Ba Lan, Hà Lan, Áo-Phổ, Séc, Hungary, v.v…), 1 morga ở Ba Lan tương đương khoảng nửa héc-ta (ND).

[11] Belvedere, trong tiếng Ý có nghĩa là cảnh đẹp, một kiểu kiến trúc trên chóp tòa nhà, dùng để phóng tầm mắt ngắm cảnh đẹp (ND).

[12] Trong thần thoại Hy Lạp, cánh đồng Elysium nằm ở thế giới của người chết dưới mặt đất, nơi các linh hồn từng sống phẩm hạnh đi dạo (ND).

[13] Centaurus trong thần thoại Hy Lạp có hình hài nửa người, nửa ngựa (ND).

[14]] Hình ảnh liên tưởng đến các hội Tam Điểm cũng sử dụng biểu tượng cái bay (ND).