7-1-2024
C.S. Lewis và Bốn tình yêu
[C.S. Lewis, đối với độc giả Việt Nam, chủ yếu là tác giả của The Chronicles of Narnia cùng một số tác phẩm xoay quanh đó - nhìn chung hơn, một nhà văn thuộc kiểu Tolkien. Như vậy là không đầy đủ: cũng như Conan Doyle còn có vai trò ở nhiều phương diện khác chứ không chỉ là người tạo ra Sherlock Holmes, C.S. Lewis còn quan trọng trên nhiều khía cạnh khác.
Bài viết dưới đây sẽ cho thấy chi tiết về C.S. Lewis, đặc biệt về cuốn sách Bốn tình yêu (The Four Loves) - Khác sắp xuất bản cuốn sách ấy, qua bản dịch của Nguyễn Công Nam. Đây cũng là tác phẩm mở đầu cho chủ đề tình yêu, một chủ đề dài hơi và lâu dài của nhà xuất bản, thuộc tủ sách Nghĩ Khác.]
Clive Staples Lewis sinh năm 1898 ở County Down, Ireland. Thuở niên thiếu, ông kinh qua nhiều trường nội trú ở Anh, với ông rất kém vui vẻ; cuối cùng mới được học với người thầy sau này ông yêu mến và mang ơn, William Kirkpatrick. Năm 17 tuổi, khi đã ghi danh vào Oxford, ông nhập ngũ, tham chiến ở Pháp, trước khi bị thương và được chuyển về Anh, kết thúc đời lính ngắn ngủi. Trở lại Oxford, ông học giỏi và giật được hai bằng ưu, một Cổ điển học, một Văn chương Anh, môn học mới có ở Oxford lúc bấy giờ. Ông vào Magdalen College, Oxford, năm 1929, và dạy học ở đây đến 1954, khi nhận lời mời từ Cambridge để đến đó với tư cách Giáo sư Văn học Anh thời Trung cổ và Phục hưng. Từ đó cho đến khi qua đời, ông vẫn hằng tuần bắt xe bus về Oxford để tụ tập, trao đổi và thảo luận văn chương với các bạn trong nhóm Inklings mà một thành viên là J.R.R. Tolkien.
Độc giả đã biết đến Lewis với tư cách nhà văn; ông là tác giả của Narnia, được xem là bộ truyện dành cho thiếu nhi và được độc giả Tây phương yêu thích. Tuy nhiên, trong đời ông, một mảng lớn không kém sáng tác là nghiên cứu và phê bình văn học. Nổi tiếng và đồ sộ nhất là tập Lịch sử Văn học Anh thế kỷ 16 (ngoại trừ kịch), xuất bản năm 1954. Với tập này, Lewis đã cho thấy giá trị của lời khuyên chính mình đưa ra: thay vì đọc phê bình, hãy đọc văn học sử. Xử lý thời kỳ sáng tác hay nhóm tác giả nào, ông cũng tuân thủ ít nhất hai nguyên tắc: (1) cung cấp cho độc giả kiến thức cần thiết để tiếp thu tác phẩm như tác giả muốn nó được tiếp thu và (2) mô tả và so sánh tương đối thay vì đánh giá riêng lẻ. Khi bộ mặt của bản thân tác phẩm đã được chiếu sáng, thì nghị luận hay dở mà thôi sẽ bị cho thấy là quá sơ khoáng, và có lẽ không cần thiết nữa. Cũng chính vì có nhiều suy tư về phê bình, nên ông đã viết Một thử nghiệm cho Phê bình, in 1960. Đây là một chuỗi nhiều bài giảng ở Cambridge, với một luận đề thú vị: thay vì đánh giá gu theo sách (“gu dở thích sách dở, gu hay thích sách hay”), hãy đánh giá sách theo gu đọc mà sách ấy thu hút. Những bài giảng này chứa nhiều quan sát về các nghĩa khác nhau của “tính chân thực” trong văn nghệ, về tình trạng của thơ hiện đại, về lối phê bình vô ích và hữu ích, v.v… để rồi kết luận, rằng trong việc đọc sách, hay tình yêu, hay tôn giáo, đi lên là lúc người ta mở các giác quan để Cái Bên Ngoài ùa vào và làm công việc của nó trên mình, thay vì tìm kiếm những gì tiếp tục nuông chiều những xu hướng có sẵn.
Mảng thứ ba trong sự nghiệp của Lewis là xã luận, mảng mà các bạn bè trong học giới của ông ít quan tâm hơn, thậm chí xem thường, nhưng lại được bàn tán nhiều đến trong xã hội. Ông viết nhiều bài nói về thần học đơn giản, dùng đọc trong các buổi phát thanh và hướng đến khán giả chưa tiếp xúc với các tác phẩm lớn về Đức Chúa trời, sự Hư mất hay tình Yêu thương. Ki-tô giáo đơn thuần trình bày những giáo lý Ki-tô cơ bản mà bất kỳ giáo phái Ki-tô nào cũng lấy làm căn bản. Nan đề về Sự Đau đớn muốn dung hòa, một bên là giáo lý cho rằng Đức Chúa Trời toàn năng và đầy nhân từ, một bên là hiện thực nghiệt ngã rằng trên thế gian đầy đau đớn cho cả người lẫn cầm thú, về cả thể xác lẫn tinh thần. Ông để lại nhiều bài báo, bài luận về những vấn đề luân lý mà tất cả, bất luận là vấn đề to hay nhỏ, đều được xử lý bằng một giọng văn gãy gọn, hài hước, rất nhẹ nhàng, vững luận lý.
Bốn tình yêu (1960) thuộc về loại thứ ba. Nó là tinh chỉnh của một xê ri các buổi nói chuyện trên đài phát thanh, thực hiện năm 1958. Người Hy Lạp có bốn chữ dành cho bốn tình yêu khác nhau, và trong cuốn sách này Lewis tuần tự nói về bốn tình yêu ấy. Tuân thủ nguyên tắc “Không có cái cao nhất nếu không có cái thấp nhất”, ông bắt đầu với Tình Thân, thứ tình cảm cơ bản hơn cả. Đây là tình yêu nảy nở từ sự quen thuộc: tình yêu giữa cha mẹ và con cái, anh chị em trong nhà, giữa người và chó ăn ở lâu ngày, giữa một người với cái nhà thờ mấy trăm năm tuổi ở địa phương, v.v…, và gọi là cơ bản, bởi không có thứ tình yêu này, người ta không bước nổi những bước đầu đời (nghĩa đen), không gìn giữ nổi những thứ tình yêu khác: hãy thử tưởng tượng tình yêu lứa đôi không có Tình Thân! Kế đến Tình Bạn. Đây là tình cảm nặng “phần hồn”, ít “phần xác” nhất. Bạn hữu không cần, không đòi được bạn hữu chăm khi ốm, cho tiền khi túng, hôn sâu - đó là chức năng của những tình yêu khác. Bằng hữu kết tụ nhờ chung mối quan tâm, nhờ “cùng nhìn về một thứ”, không phải “nhìn vào nhau”. Chính vì thế, về nghĩa nào đó, những hoạt động của tình bạn ít mang màu sắc vị kỷ: tôi nói chuyện với bạn về tem, về xe phân khối lớn, về thả diều, chứ không phải về tôi. Thứ ba, là Luyến Ái, cái đôi khi hất cẳng tất tật những tình yêu còn lại ra khỏi khái niệm Tình yêu. Ái Tình làm người ta đắm đuối nhau: đó là cái khiến nó khác, thậm chí trái ngược, với Tình Bạn, cái vốn hướng những người bạn vào một đối tượng thứ ba. Nó rất “sinh lý”; nhiều người cho nó là “sinh lý” hơn cả. Thế nhưng tác giả để ý rằng, ở nơi thực sự có Luyến Ái, ham muốn thể xác đến sau cùng, không phải đầu tiên. Đầu tiên là sự mong mỏi, là trầm trồ trước một con người tự-nó-tốt, tốt mà không phải vì nó đã phục vụ nhu cầu hay ham muốn nào ở kẻ ngắm nhìn. Nhưng rồi nó có thể trở thành con quỷ, soán đoạt vị trí đáng lẽ là của các nghĩa vụ và tình yêu khác; Anna Karenina đã chẳng yêu như vậy sao? Cuối cùng mới là sự Yêu Thương mà người ta gặp ở I Cô-rinh-tô 13. Tất cả các tình yêu kia, ở mức độ nào, rồi cũng chỉ là một mặt của tình yêu này, cũng như một mặt phẳng nhỏ bé kia trên một viên kim cương nhiều mặt. Mẹ mà ta thương, Bạn mà ta trìu mến, Tình nhân ta say đắm, rồi cũng chỉ là một phần, một phản chiếu nhỏ bé của Ngài, Đấng mà ta đã yêu, quên mất mình đã yêu, và để được cứu thì phải học yêu lại. Mọi tình yêu “dự phần” - nói theo lối Plato - vào Tình yêu (của Ngài), và mọi vẻ đẹp chỉ là bóng của Đẹp, Đẹp mà ta chỉ tìm được nơi Ngài. Sự Yêu thương và Đức Chúa trời xa vời, trừu tượng ư? Đúng thế, nhưng chỉ ở đó người ta mới tìm được lời hứa huyền bí về sự vượt lên phận người, để yêu trên-người một cái gì đó Trên-người.
Trong quá trình đọc về bốn chủ đề lớn này, chúng ta thấy còn thấy những dặn dò nho nhỏ nhưng quý giá: về mối nguy của việc sùng bái thế giới tự nhiên; về sự tai hại của một bên là yêu nước cực đoan, một bên là bài bác hoàn toàn tinh thần ái quốc; về sự dại dột của việc trông đợi thứ tình yêu này làm được công việc của thứ tình yêu khác; v.v… Cuốn sách này không cho lời dạy, nhưng nó giải thích được rất nhiều buồn bực, lâng lâng, chán chường và mong mỏi trong tình cảm gia đình, trong tình bạn, trong tình yêu lứa đôi và (cho những ai tin) trong mối quan hệ giữa Người và Chúa. Lập luận vững vàng, hành văn hóm hỉnh, đan xen những trích dẫn văn chương của một giáo sư ngữ văn hàng đầu nước Anh thời ấy, Lewis sẽ dắt ta đi qua bốn tình yêu một cách nhẹ nhàng, tạo cho người nghe cảm giác chính mình cũng có thể bước vào triết học của yêu đương một cách tường minh và tự tin như ông.
Phần lớn đời mình, Lewis sống không vợ, và mãi mãi không có con của riêng mình. Phải đến tuổi ngũ tuần, ông mới biết qua thư Joy Davidman, một nhà thơ Mỹ gốc Do Thái, duy trì một tình bạn qua thư với bà, để rồi sau đó gặp gỡ trên đất Anh và đi đến hôn nhân. Ông có một người anh trai duy nhất, Warren Lewis, mà ông vô cùng thân thiết, một người bạn chung sở thích vẽ vời, đọc sách có từ tấm bé. Lewis giảng dạy, nghiên cứu, sáng tác cho đến 1963, khi ông từ trần vì bệnh suy thận.
Nguyễn Công Nam